Sau hơn 10 năm thi hành, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật Công chứng năm 2014 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần khắc phục, như: quy định về công chứng bản dịch chưa thực sự phát huy tác dụng trong thực tiễn; một số quy định về trình tự, thủ tục công chứng không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn; quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên còn chưa đầy đủ, rõ nét...
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục phát triển hoạt động công chứng theo định hướng xã hội hóa, ổn định, bền vững, phù hợp với thông lệ quốc tế, ngày 26/11/2024, Quốc hội khoá XV tại Kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Công chứng năm 2024, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025 và thay thế Luật Công chứng năm 2014.
Về cơ bản, Luật Công chứng năm 2024 giữ nguyên quy định của Luật Công chứng năm 2014 về phạm vi điều chỉnh, bao gồm các quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Luật Công chứng năm 2024 gồm 08 chương 76 Điều (giảm 02 chương và 05 điều so với Luật Công chứng năm 2014), với các nội dung mới cơ bản sau đây:
1. Xác định đúng phạm vi hoạt động công chứng và thẩm quyền của công chứng viên; quy định về các giao dịch phải công chứng
Theo đó, Luật Công chứng năm 2024 khẳng định rõ công chứng là dịch vụ công; là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của giao dịch dân sự bằng văn bản. Việc chứng nhận bản dịch không còn thuộc phạm vi công chứng, công chứng viên thực hiện chứng thực chữ ký người dịch theo quy định của pháp luật về chứng thực (điểm c khoản 1 Điều 16).
Ngoài ra, theo Luật Công chứng năm 2024, việc công chứng viên chỉ thực hiện một số việc chứng thực nhưng không thực hiện việc công chứng giao dịch thì vẫn không được tính là hành nghề công chứng. Đây là căn cứ quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, xác minh, xem xét xử lý đối với công chứng viên trong quá trình hành nghề của mình.
Bên cạnh đó, Luật Công chứng năm 2024 bổ sung 01 Điều (Điều 3) quy định về các giao dịch phải công chứng nhưng không theo hướng liệt kê tên giao dịch mà quy định tiêu chí xác định các giao dịch phải công chứng (giao dịch quan trọng, đòi hỏi mức độ an toàn pháp lý cao và được luật quy định hoặc luật giao Chính phủ quy định). Đồng thời, Luật giao cho Bộ Tư pháp trách nhiệm rà soát, cập nhật, đăng tải các giao dịch phải công chứng, chứng thực trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (khoản 2 Điều 3), giúp người dân, doanh nghiệp thuận lợi trong việc xác định các giao dịch phải công chứng, tăng tính minh bạch trong quá trình áp dụng pháp luật.
2. Xác định lại và bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm
Trong Luật Công chứng năm 2014 đã quy định riêng Điều luật về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 7), tuy nhiên Điều này quy định chung về hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng. Luật Công chứng năm 2024 quy định các hành vi bị nghiêm cấm theo từng nhóm đối tượng (công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng và cá nhân, tổ chức có liên quan) nhằm xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể, góp phần phát triển đội ngũ công chứng viên chất lượng cao và các tổ chức hành nghề công chứng ổn định, bền vững, tăng cường trách nhiệm, ý thức của cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc công chứng (Điều 9).
3. Các quy định liên quan đến Công chứng viên (Chương II)
Để nâng cao chất lượng đầu vào, nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong hoạt động công chứng, bảo đảm hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của đội ngũ công chứng viên, Luật Công chứng năm 2024 có những điểm mới như:
- Thứ nhất, về tiêu chuẩn công chứng viên (Điều 10): Ngoài các tiêu chuẩn cơ bản được kế thừa từ Luật Công chứng năm 2014, Luật Công chứng năm 2024 bổ sung tiêu chuẩn về độ tuổi công chứng viên “không quá 70 tuổi”; giảm thời gian công tác pháp luật từ 05 năm xuống còn 03 năm, quy định tiêu chuẩn có bằng cử nhân luật hoặc thạc sỹ hoặc tiến sỹ luật.
- Thứ hai, về đào tạo nghề công chứng (Điều 11): Để góp phần nâng cao chất lượng đầu vào của đội ngũ công chứng viên, Luật Công chứng năm 2024 bỏ quy định về miễn đào tạo nghề công chứng, thay vào đó tất cả các đối tượng muốn bổ nhiệm công chứng viên đều phải tham gia đào tạo nghề công chứng, tuy nhiên có giảm 1/2 thời gian đào tạo nghề công chứng đối với một số đối tượng có trình độ pháp luật cao, có thời gian giữ một số chức danh pháp lý cụ thể (khoản 2, 3 Điều 11).
- Thứ ba, về tập sự hành nghề công chứng (Điều 12) Quy định tất cả các đối tượng đều phải tập sự 12 tháng.
- Thứ tư, về độ tuổi công chứng viên (Điều 10): Khoản 1 Điều 10 Luật Công chứng năm 2024 quy định về tiêu chuẩn xem xét bổ nhiệm công chứng viên “là công dân Việt Nam không quá 70 tuổi”.
Luật có quy định chuyển tiếp (Điều 76), theo đó công chứng viên quá 70 tuổi đang hành nghề công chứng tại thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục hành nghề công chứng trong thời hạn tối đa là 02 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành.
4. Các quy định liên quan đến tổ chức hành nghề công chứng:
Nhằm phát triển các tổ chức hành nghề công chứng đúng định hướng, ổn định, bền vững, phân bố hợp lý, đáp ứng tốt nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức, Luật Công chứng năm 2024 có những điểm mới như sau:
- Bổ sung quy định về Chiến lược phát triển về lĩnh vực công chứng và Đề án quản lý, phát triển các tổ chức hành nghề công chứng.
- Kế thừa quy định của Luật Công chứng năm 2014 về việc Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh, tuy nhiên có điểm mới là cho phép thành lập Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân ở các đơn vị hành chính cấp huyện có mật độ dân số thấp, cơ sở hạ tầng và dịch vụ chưa phát triển và khó khăn trong việc thành lập Văn phòng công chứng theo loại hình công ty hợp danh; Danh mục các đơn vị hành chính cấp huyện được thành lập Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân do Chính phủ quy định (khoản 1 Điều 23).
- Quy định tên gọi của Văn phòng công chứng do các thành viên hợp danh của Văn phòng công chứng theo loại hình công ty hợp danh thỏa thuận hoặc Trưởng Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân quyết định (khoản 4 Điều 23); thay vì quy định cũ của Luật Công chứng năm 2014 là tên gọi của Văn phòng công chứng phải là họ tên của một trong số các công chứng viên hợp danh.
Đặc biệt, đối với các trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp danh, bán Văn phòng công chứng, chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng thì công chứng viên hợp danh hoặc Trưởng Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân đều chỉ được tiếp tục hợp danh vào Văn phòng công chứng khác hoặc làm Trưởng Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân khác sau thời hạn ít nhất là 02 năm (khoản 6 Điều 27, khoản 5 Điều 30…).
5. Các quy định về trình tự, thủ tục công chứng:
- Bỏ Phiếu yêu cầu công chứng trong thành phần hồ sơ yêu cầu công chứng để tạo thuận lợi cho người yêu cầu công chứng (khoản 1 Điều 42).
- Đối với thủ tục chung về công chứng giao dịch, Luật Công chứng năm 2024 bổ sung một số loại giao dịch về bất động sản mà khi thực hiện công chứng thì không phải theo thẩm quyền địa hạt phù hợp với tính chất của giao dịch (Điều 44); bổ sung quy định cho phép người yêu cầu công chứng được thoả thuận với tổ chức hành nghề công chứng về thời hạn công chứng trong một số trường hợp cụ thể để vừa bảo đảm quyền của người yêu cầu công chứng vừa không tạo sự cứng nhắc trong thủ tục công chứng (khoản 2 Điều 45); quy định rõ hơn về các trường hợp được công chứng ngoài trụ sở để vừa bảo đảm nguyên tắc công chứng tại trụ sở vừa tạo sự linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tiễn (khoản 2 Điều 46)...
- Bổ sung 04 điều mới (Điều 62 đến 65) quy định những vấn đề cơ bản nhất về công chứng điện tử nhằm tạo cơ sở pháp lý cho chuyển đổi số hoạt động công chứng./.