Luật Tiếp cận thông tin - Phương tiện pháp lý hữu hiệu góp phần bảo đảm thực hiện quyền con người theo Hiến pháp năm 2013
Luật Tiếp cận thông tin - Phương tiện pháp lý hữu hiệu
góp phần bảo đảm thực hiện quyền con người theo Hiến pháp năm 2013
Quyền tiếp cận thông
tin là một trong các quyền cơ bản của con người, của công dân thuộc nhóm quyền
dân sự - chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của
Liên Hợp quốc từ năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 mà Việt Nam là thành viên. Quyền tiếp cận thông tin tiếp tục được khẳng
định trong nhiều điều ước quốc tế khác như Công ước của Liên Hợp quốcvề chống
tham nhũng, Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển....
Khái
quát chung về tiếp cận thông tin
Trên
thế giới, Luật Tiếp cận thông tin được ban hành từ rất sớm. Đi đầu trong số các
quốc gia ban hành đạo luật này là Thụy Điển (năm 1766), đa số các nước còn lại
ban hành luật vào những năm 90 trở lại đây. Ở Châu Á, nhiều nước đã ban hành
luật về tiếp cận thông tin, như Thái Lan (năm 1997), Hàn Quốc (năm 1996 và sửa
đổi, bổ sung vào các năm 2004, 2008), Nhật Bản (năm 2001), Ấn Độ (năm 2005),
Trung Quốc (năm 2007), Inđônêxia (2008)... Đến nay, đã có khoảng trên 100 quốc
gia ban hành đạo luật riêng quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Với nhiều tên gọi khác nhau, như: “Luật tự do thông tin”, “Luật tiếp cận thông
tin”, “Luật tăng cường tiếp cận thông tin” hay “Luật tăng cường tiếp cận các hồ
sơ hành chính nhà nước”... nhưng các luật này đều quy định sự bảo hộ của Nhà nước trong
việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Ở Việt
Nam, nội dung về
quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận trong Hiến pháp từ những
năm 1992 và tiếp tục được khẳng định
trong Hiến pháp hiện hành năm 2013. Theo đó: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định” (Điều 25). Nhằm cụ thể hóa quyền tiếp cận thông
tin theo Hiến pháp năm 2013 và cùng với quá trình đổi mới đất nước, hội nhập
quốc tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ngày 06/4/2016, tại kỳ họp
thứ 11, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin. Luật này gồm 5
chương, 37 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018.
Những nội dung
cơ bản của Luật Tiếp cận thông tin
Luật Tiếp cận thông tin quy
định cách hiểu thống nhất đối với một số khái niệm cơ bản trong Luật này, bao
gồm: Thông
tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có
sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng,
đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra. Thông
tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá
trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu
hoặc xác nhận bằng văn bản. Tiếp cận thông tin là việc đọc,
xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin. Cung cấp thông tin bao
gồm việc cơ quan nhà nước công khai thông tin và cung cấp thông tin theo yêu
cầu của công dân.
Nguyên tắc
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin: Để đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin của công dân
được tôn trọng và thực hiện, Luật đưa ra các nguyên tắc: Mọi công dân đều bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin;
thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải
kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật; việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; việc thực hiện quyền tiếp
cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác; nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới,
hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực
hiện quyền tiếp cận thông tin.
Chủ thể thực
hiện quyền tiếp cận thông tin: Chủ thể được thực hiện quyền thông tin là công dân; đối với
trường hợp người bị mất năng lực hành vi dân sự sẽ thực hiện yêu cầu cung cấp
thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật; người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi thực hiện yêu cầu thông qua người giám hộ; người dưới 18
tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, trừ
trường hợp luật về trẻ em và luật khác có quy định khác. Đối với các trường hợp
là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, sẽ được bảo hộ một số quyền, lợi ích
chính đáng theo nguyên tắc đối xử quốc gia hoặc có đi có lại, bởi vậy, Luật quy
định họ chỉ được yêu cầu cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến
quyền và nghĩa vụ của họ (Khoản 1, Điều 36).
Thông tin
công dân được tiếp cận và không được tiếp cận:
Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ thông tin
không được tiếp cận quy định tại Điều 6 của Luật này; được tiếp cận có điều
kiện đối với thông tin quy định tại Điều 7 của Luật này”. Cụ thể: Thông tin
công dân không được tiếp cận là thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan
trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh
tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật; thông tin mà
nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu
đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống
hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc
họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà
nước soạn thảo cho công việc nội bộ. Thông tin công dân được tiếp cận có
điều kiện là thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong
trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí
mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người
đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường
hợp được các thành viên gia đình đồng ý.
Phạm vi và trách nhiệm cung cấp thông tin:
Về nguyên tắc, cơ quan nhà nước có trách nhiệm trực
tiếp cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ các trường hợp quy
định tại Điều 6 của Luật Tiếp cận thông tin như đã nêu trên; đối với trường hợp
quy định tại Điều 7 của Luật Tiếp cận thông tin thì cung cấp thông tin khi có
đủ điều kiện theo quy định. Ngoài ra, Luật Tiếp cận thông tin quy định trách
nhiệm cung cấp thông tin đối với một số chủ thể “đặc biệt”, đó là:
Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm cung cấp
thông tin do Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tạo ra và thông tin do mình tạo
ra;
Văn phòng Chủ tịch
nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chủ tịch nước tạo ra và thông tin do
mình tạo ra;
Văn phòng Chính
phủ có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tạo ra
và thông tin do mình tạo ra;
Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm cung cấp
thông tin do Đoàn đại biểu Quốc hội tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung
cấp thông tin do Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
Văn phòng Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin do Ủy ban nhân dân, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
Văn phòng Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cung cấp thông tin do Hội
đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tạo ra và thông tin do
mình tạo ra;
Ủy ban nhân dân
cấp xã có trách nhiệm cung cấp cho công dân cư trú trên địa bàn thông tin do
mình và do các cơ quan ở cấp mình tạo ra, thông tin do mình nhận được để
trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cung cấp cho công dân khác
thông tin này trong trường hợp liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ;
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công
an quy định đầu mối thực hiện cung cấp thông tin trong hệ thống
tổ chức của mình.
Cách thức và chi phí tiếp cận thông tin:
Luật quy định công dân được tiếp cận thông tin thông qua hai cách thức: tự
do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai và yêu cầu cơ quan
nhà nước cung cấp thông tin.
Theo thông lệ của các nước trên thế giới, Luật Tiếp cận
thông tin của nước ta quy định: Công dân
được cung cấp thông tin không phải trả phí, lệ phí, trừ trường hợp luật khác có
quy định. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải trả chi phí thực tế để in, sao,
chụp, gửi thông tin.
Các hành vi
bị nghiêm cấm: Khi
thực hiện cung cấp thông tin và sử dụng dụng thông tin, Luật nghiêm cấm đối với
một trong các hành vi sau: Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ; trì
hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin; cung cấp hoặc sử dụng thông tin để
chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn
kết, kích động bạo lực; cung cấp
hoặc sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về
giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc cản trở, đe dọa, trù dập người yêu cầu,
người cung cấp thông tin.
Quyền khiếu
nại, khởi kiện, tố cáo: Người yêu cầu cung cấp thông tin có quyền khiếu nại,
khởi kiện đối với cơ quan nhà nước, người có trách nhiệm cung cấp
thông tin quy định tại Điều 9 của Luật Tiếp cận thông tin. Công dân có quyền tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin. Việc khiếu nại, khởi kiện,
tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp
luật về tố tụng hành chính.
Xử lý vi phạm: Để đảm bảo việc cung cấp
thông tin kịp thời, chính xác, Luật Tiếp cận thông tin quy định hình thức xử lý
đối với trường hợp có hành vi
vi phạm quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Người cung
cấp thông tin có một trong các hành vi bị nghiêm cấm nêu trên mà gây thiệt hại
thì cơ quan nhà nước cung cấp thông tin phải bồi thường thiệt hại, cá
nhân có hành vi vi phạm có trách nhiệm hoàn trả theo quy định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với người thực hiện quyền tiếp cận
thông tin, sử dụng thông tin được cung cấp gây ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác thì phải chịu trách nhiệm
theo quy định của pháp luật
Triển khai thi hành Luật
Tiếp cận thông tin ở Hải Phòng
Xác định việc triển khai thực hiện Luật Tiếp cận thông
tin là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thời gian qua, Sở Tư pháp thành phố
đã tích cực, chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân ban hành Kế hoạch số
2232/KH-UBND ngày 19/10/2016 và Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 14/6/2017 về việc
triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Thành phố đã tổ chức 01 Hội nghị
trực tuyến quán triệt việc thi hành Luật Tiếp cận thông tin cho lãnh đạo và cán
bộ chủ chốt của các Sở, ngành, lãnh đạo Ủy ban nhân dân các quận, huyện; tổ
chức 01 Hội nghị phổ biến, giới thiệu Luật Tiếp cận thông tin cho cán bộ pháp
chế của các Sở, ban, ngành; Phòng Tư pháp các quận, huyện; lãnh đạo và cán bộ
tư pháp- hộ tịch các xã, phường, thị trấn trên địa bàn thành phố. Ngoài ra, Sở
Tư pháp tổ chức biên tập, in và phát hành hàng vạn Tờ gấp pháp luật và Tập tài
liệu Triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin đến các cơ quan, đơn vị trên
địa bàn thành phố; Lập danh mục, gửi các Sở, ngành và trực tiếp thực hiện việc
rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của thành phố để triển khai thi hành
Luật Tiếp cận thông tin...Là đơn vị được Ủy ban nhân dân giao nhiệm vụ làm đầu
mối trong công tác triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin, trong thời gian
tới, Sở Tư pháp tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, như: Tổng hợp,
lập danh sách cán bộ đầu mối cung cấp thông tin của các cơ quan, đơn vị địa
phương theo quy định; tổ chức các Hội nghị tập huấn chuyên sâu về Luật Tiếp cận
thông tin cho đội ngũ thực hiện công tác này theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành
phố; xây dựng, ban hành Quy chế nội bộ về việc cung cấp thông tin; lập danh mục
thông tin…Các nhiệm vụ này sẽ được hoàn thành trước ngày 01/6/2018 theo chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ.
Bảo đảm quyền
được thông tin là một trong những điều kiện cần thiết để xây dựng một thể chế
dân chủ và nhà nước pháp quyền. Trong bối cảnh đất nước ta xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thông tin trở
thành một yếu tố vô cùng cần thiết trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việc ban hành và triển khai thực hiện Luật Tiếp cận thông tin góp phần hữu hiệu
trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận và khẳng
định trong Hiến pháp Việt Nam./.
Điều 69
Hiến pháp năm 1992: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền
được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật..